Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên thì: trần thuật (narrate) là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật 3.4 Các phương thức làm thay đổi điểm nhìn; 3.4.2 Lời thoại dẫn trực tiếp, gián tiếp hoặc trực tiếp tự do, gián tiếp tự do; 3.4.3 Các phương thức khác như nhật ký, thư từ; CHƯƠNG 4. THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ ; 4.1 Dẫn nhập: 4.2 Tính chất thời gian Trong các tác phẩm tự sự, văn bản tự sự (text) xuất hiện dưới hình thức “văn bản trần. fthuật” hoặc “ngôn ngữ tự sự”, trọng tâm của văn bản tự sự (text) là người trần thuật trần. thuật trong văn bản, kể về văn bản có một truyện kể nhất định. 1.1.7 Ở Tuần 23 - Tiết 89 Ngày soạn:. Ngày dạy:. CÂU TRẦN THUẬT A.MỤC TIÊU 1.Kiến thức:- HS nắm được đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật. - Học sinh hiểu phân biệt của câu trần thuật với các kiểu câu khác. 2. Kĩ năng: - Rèn cho học sinh kĩ năng nhận biết câu trần thuật trong các văn Câu tường thuật là gì? Câu tường thuật là câu thuật lại lời nói trực tiếp của người khác (Direct speech - Indirect speech) Cách sử dụng cũng như những lưu ý khi sử dụng câu tường t . Phương thức trần thuật tiếng Anh narrative perspective ; tiếng Trung Quốc phương vị trần thuật, cũng dịch là góc độ trần thuật là phương thức trần thuật được cấu thành bởi sự phối hợp giữa tiêu cự trần thuật và tư cách kể. Tiêu cự trần thuật có thể chia thành hai loại trần thuật biết hết và trần thuật theo điểm nhìn nhân vật. Tư cách kể có thể chia thành người kể lộ diện kể theo “ngôi thứ nhất” hoặc người kể ẩn tàng kể theo “ngôi thứ ba” hoặc “ngôi thứ hai”. Hai yếu tố này kết hợp với nhau tạo thành các phương thức tự sự khác nhau theo quan điểm của từng chuyên gia, song nhìn chung, có thể lưu ý tới các phương thức sau Kể theo ngôi thứ ba, khách quan, người kể biết hết, tiêu cự bằng không. Kể theo ngôi thứ ba, người kể biết hết, có bình luận. theo ngôi thứ ba, chủ quan do vận dụng điểm nhìn của nhân vật tiêu cự bên trong. Kể theo ngôi thứ nhất của người kể bàng quan, đứng ngoài. Kể theo ngôi thứ nhất có bình luận. Kể theo ngôi thứ nhất mang điểm nhìn của người trong cuộc. Các phương thức này cung cấp một cơ sở lý thuyết để nhìn nhận các loại hình trần thuật hoặc sự tiến triển của nghệ thuật tự sự. Chẳng hạn trong truyện kể trung đại thường chỉ có phương thức trần thuật 1 và 2. Phương thức 3 đến thời cận, hiện đại mới có, bởi chỉ có sự phát triển của ý thức cá nhân, có quan niệm cá tính thì điểm nhìn bên trong mới được đưa vào nghệ thuật tự sự. Điều này giải thích tại sao trong tự sự dân gian, tự sự cổ trung đại chủ yếu chỉ có trần thuật theo phương thức 1 và 2. Khái niệm tiêu cự cho phép phân biệt các hình thức tự sự ngôi thứ ba thuộc văn học trung đại với trần thuật ngôi thứ ba của văn học hiện đại. Phương thức trần thuật trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Rừng xà Nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12.I. Các phương thức trần Phương thức trần thuật trong tác phẩm Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Phương thức trần thuật trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Rừng xà Nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12. I. Các phương thức trần thuật. 1. Trần thuật từ ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể chuyện lời trực tiếp. 2. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình. 3. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình, nhưng điểm nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật trong tác phẩm lời nửa trực tiếp. II. Phương thức trần thuật trong tác phẩm truyện. 1. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. – Thành công của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không những ở mặt nội dung mà còn ở mặt nghệ thuật. Một trong những phương diện quan trọng về mặt nghệ thuật cần được đề cập đến chính là phương thức trần thuật. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời nói của tác giả, người trần thuật. Có thể thấy phương thức trần thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện ở những điểm sau – Phương thức trần thuật được thể hiện ở ngôi kể và giọng điệu. + Người kể ở ngôi thứ ba, hóa thân vào nhân vật. + Nhịp kể chậm, giọng trầm lắng, đầy sự cảm thông, thương cảm đối với nhân vật chính. Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong nhân vật tạo ra sự đồng cảm giữa người kể và nhân tình tiết truyện liên tục biến đổi, hấp dẫn mà không hề bị rối nhờ sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ. + Giọng trần thuật của truyện hòa nhập tư tưởng truyện và nội dung của từng đoạn. – Ngôn ngữ kể chuyện đậm văn hóa vùng miền, biểu hiện + Khung cảnh mùa xuân được diễn tả thật sinh động. + Cảnh xử kiện đối với A Phủ diễn ra ở nhà thống lý Pá Tra. – Phương thức trần thuật được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật. + Cách giới thiệu khéo léo, ngắn gọn mà gây ấn tượng mạnh về lai lịch của nhân vật. + Nhân vật Mỵ rất ít hành động nhưng hành động của nhân vật lặp đi lặp lại như điệp khúc. + Chân dung nhân vật được khắc họa gây ấn tượng lắng đọng cúi mặt, mặt buồn, mặt buồn rười rượi, lùi lũi,…. – Phương thức trần thuật còn được thể hiện ở yếu tố thời gian. + Thời gian thực tế gắn liền với thời gian trần thuật đã góp phần không nhỏ trong việc khai thác diễn biến nội tâm của nhân vật. Điều này được thể hiện khá rõ ở Đêm tình mùa xuân, đêm đông Mỵ cởi trói cứu A Phủ. +Chính yếu tố thời gian này giúp người đọc dễ dàng nhận ra câu chuyện được kể theo phương pháp lắp ghép với một trình tự nhất định cho phép nhà văn đi sâu vào nội tâm nhân vật. – Phương thức trần thuật còn được thể hiện ở sự tương tác giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật. + Giới thiệu nhân vật. + Miêu tả chân dung. + Ngoại cảnh tái hiện tâm trạng nhân vật. + Đối thoại, độc thoại. 2. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. – Tác phẩm “Vợ nhặt”, ngoài cách xây dựng tình huống truyện độc đáo thì phương thức trần thuật của Kim Lân cũng không kém phần hấp dẫn. Có thể nói nghệ thuật kể chuyện tự nhiên mà hấp dẫn. – Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị mà chặt chẽ. Kim Lân đã chọn phương thức trần thuật khách quan theo tâm lý nhân vật + Mở đầu tác phẩm là cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. + Trong sự ngạc nhiên của mọi người và bản thân, Tràng nhớ lại câu chuyện nhặt được vợ. + Tiếp đó mạch tự sự chảy xuôi cho đến thời điểm kết thúc. Với mạch tự sự theo diễn biến tâm lý nhân vật, Kim Lân đã tạo cho tác phẩm một mạch trần thuật rất tự nhiên hấp dẫn. Có thể nói dạng cấu trúc trần thuật này đã góp phần rất lớn vào việc biểu hiện ý nghĩa nhân văn của tác phẩm Cuộc sống khủng khiếp đến mức khiến con người nghĩ rằng mình không thể có được hạnh phúc ngay cả khi nó trở thành hiện thực. – Ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng. Do đó tạo được sức gợi đáng kể. 3. Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Phương thức trần thuật trong tác phẩm thể hiện qua một số khía cạnh sau – Cốt truyện Truyện “Rừng xà nu” có 2 câu chuyện đan cài vào nhau Chuyện về cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô-Man. + Câu chuyện được kể như là một hồi tưởng trong một đêm Tnú được nghỉ phép về thăm làng. Đây chính là hồi tưởng của cụ Mết và hồi ức của Tnú. Tiếng cụ Mết vẫn trầm và nặng. Ông cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt. Bỗng nhiên ông cụ nói to lên Tnú không cứu được vợ con. Tối đó Mai đứa con thì đã chết lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại… + Chuyện đời Tnú được cụ Mết kể bên bếp lửa nhà ưng cho dân làng nghe. – Quan điểm người kể chuyện có sự đan xen giữa quan điểm tác giả và quan điểm nhân vật + Đoạn mở đầu kể theo quan điểm của tác giả. + Phần sau tác giả trao quyền kể lại cho nhân vật cụ Mết, cụ Mết đã kể lại toàn bộ câu chuyện về cuộc đời Tnú cho dân làng nghe. – Cách kể trang trọng như muốn truyền cho các thế hệ con cháu những trang sử thi oai hùng của cả cộng đồng trong những ngày Đồng Khởi “Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết đứa chưa rõ. Còn lũ con nít thì chưa biết… Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó… anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó… Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…”. – Giọng trần thuật gợi nhớ lối kể “khan” trường ca của các dân tộc Tây Nguyên. + Bên bếp lửa dưới mái nhà ưng. + Câu chuyện của Tnú là chuyện thời hiện đại nhưng vẫn được kể như câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi, với thái độ chiêm ngưỡng qua một “khoảng cách sử thi” đối với những con người và sự kiện được kể lại. – Điều đó đã thể hiện chất sử thi hùng tráng của câu chuyện. + Nghệ thuật xây dựng truyện “Rừng xà nu” là một truyện ngắn nhưng có sức chứa như một bản trường ca về chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên được viết khoảng mươi trang bằng nghệ thuật độc đáo. Các yếu tố truyện càng lúc càng mở rộng tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. – Rừng xà nu có hai câu chuyện lồng vào nhau, với nhiều tình tiết, sự kiện được diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài. Để dồn chứa một dung lượng khá lớn như vậy vào một truyện ngắn, tác giả đã lựa chọn cách kể hợp lí câu chuyện của một đời người, một làng được kể kể trong một đêm, qua lời kể của một già làng. Cách kể chuyện ấy rất thích hợp với nội dung và tính chất của truyện, lại gợi liên tưởng đến cách kể khan của các dân tộc Tây Nguyên. Đây cũng chính là một đặc điểm về nghệ thuật tự sự, yếu tố quan trọng tạo nên thành công tác phẩm. – Ở phần đầu và cuối truyện là thời gian hiện tại gắn với sự việc Tnú về thăm làng chỉ trong một đêm và sáng hôm sau lại ra đi. Phần giữa, cũng là phần chính của truyện, chủ yếu tái hiện lại những sự việc thuộc thời gian quá khứ. Nhưng đôi lúc mạch kể lại quay lại quay lại hiện tại bằng việc miêu tả cảnh dân làng nghe cụ Mết kể về chuyện Tnú, cùng những lời trực tiếp của cụ Mết, của Tnú. Cách phối hợp các lớp thời gian như vậy làm cho truyện mở ra được nhiều sự kiện, biến cố, tái hiện được cả một giai đoạn lịch sử trong một dung lượng câu chữ không lớn cua một truyện ngắn. Đồng thời lại kéo gần quá khứ về với thời gian hiện tại, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể, sinh động về những sự việc và con người được kể như đang hiện diện trước mắt. – Phù hợp với thời gian như trên, truyện sử dụng phối hợp điểm nhìn của hai người kể chuyện người kể chuyện ở ngôi thứ ba vô hình và người kể là cụ Mết. Trong phần chính của truyện, lời kể ở ngôi thứ ba lại nương theo câu chuyện về Tnú do cụ Mết kể cho dân làng nghe, xen kẽ với những lời trực tiếp của cụ Mết. Lời cụ Mết thường chỉ để khởi đầu cho mỗi chặng, dẫn mạch kể ở những biến cố tạo bước ngoặt. 4. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi. – Với tác phẩm Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã chọn phương thức trần thuật men theo dòng hồi tưởng của nhân vật Việt – một chiến sĩ trẻ bị thương nặng trên chiến trường, bị lạc đồng đội, nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Nghĩa là tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật tự kể, dựa theo điểm nhìn của nhân vật. – Chọn cách trần thuật này vừa thể hiện sự sáng tạo về hình thức nghệ thuật vừa góp phần đắc lực trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. + Thứ nhất, vì câu chuyện được kể theo những kí ức chợt đến chợt đi, nhớ chuyện này lại xen lẫn chuyện kia nên trật tự kể bị xáo trộn. Vách ngăn giữa các khoảng thời gian quá khứ và hiện tại dường như bị cất bỏ. Song câu chuyện vẫn rõ ràng mạch lạc. Người đọc không chỉ cảm nhận được một nhân vật Việt mà còn cảm nhận cả truyền thống gia đình nông dânNam bộ. Đó là chú Năm, ba má, chị Chiến và cả đồng đội của Việt nữa. Tỉnh dậy lần thứ nhất, Việt bò đi tìm đồng dậy lần thứ hai, trời mưa, tiếng ếch nhái kêu, Việt nhớ chuyện soi ếch “…bao giờ chú Năm cũng qua”. Thế là Việt nhớ về chú Năm và cuốn sổ gia đình. Lần ba, Việt nghe tiếng trực thăng, tiếng súng nổ, anh nhận ra mình đã ba ngày nằm tại chiến trường. Nghe tiếng cu gù gù, chiếc ná thun hiện về, gợi anh nhớ những kỉ niệm về người mẹ bao dung, vị tha, khổ đau, hiên ngang, bất khuất. Lần thứ tư, mẹ vẫn còn thoảng trong đầu…mưa làm Việt tỉnh hẳn, nhận ra mình đơn độc. Việt sợ ma. Súng nổ âm ĩ, Việt nhớ anh Tánh và đồng đội. Việt cố bò đi về phía tiếng súng nhưng cũng không khó bằng chuyện hai chị em dành nhau đi tòng quân… Câu chuyện thật hợp lí, lôgic. + Thứ hai, khi để cho nhân vật tự kể, câu chuyện trở nên hấp dẫn, chân thực về những đứa con trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Việt vừa là anh giải phóng quân gan dạ, dũng cảm vừa là cậu thanh niên còn rất trẻ con, vô tư… + Thứ ba, nhà văn để nhân vật tự kể, trang văn đậm chất trữ tình. Đời sống nội tâm của nhân vật được khai thác triệt để vừa cụ thể vừa tinh tế, phức tạp… + Thứ tư, nhân vật được đặt trong một tình huống đặt biệt đơn độc giữa chiến trường, đối diện với cái chết, đối diện với chính bản thân mình, Việt đã nghĩ nhiều nhất đến những người thân trong gia đình. Bởi gia đình là nguồn cội, là cứu cánh, là chỗ dựa tinh thần để con người vượt qua những trở lực của nghịch cảnh để hướng về phía trước. Qua đó nhà văn khẳng định sự gắn bó giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn của con người ViệtNam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. – Nhờ những lợi thế của cách trần thuật như đã nói trên, câu chuyện về đề tài chiến tranh đã thể hiện rõ tài năng nhiều mặt của Nguyễn Thi. Và tác phẩm Những đứa con trong gia đình trở thành tác phẩm xuất sắc. – Tác dụng của phương thức trần thuật này + Làm cho câu chuyện dù không có gì đặc sắc cũng trở nên mới mẻ, hấp dẫn. Tác phẩm đậm chất trữ tình, tự nhiên vì được kể bằng con mắt, tấm lòng và ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật. + Tạo điều kiện cho nhà văn thâm nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. + Diễn biến câu chuyện linh họat, không phụ thuộc vào trật tự thời gian tự nhiên, có thể xáo trộn không gian với thời gian, từ những chi tiết ngẫu nhiêncủa hiện thực chiến trường mà gợi nên những dòng hồi tưởng, liên tưởng phong phú , bất ngờ song vẫn hợp lý quá khứ khi gần, khi xa, chuyện này bắt sang chuyện nọ… → Trần thuật theo dòng hồi tưởng khiến câu chuyện về Những đứa con trong gia đình vốn được hình thành từ chuỗi những chuyện tưởng chừng như rời rạc, vụn vặt …à trở nên mạch lạc, sáng rõ. Các nhân vật hiện lên vừa cụ thể rõ nét; vừa tiêu biểu cho những thế hệ người nông dân Nam Bộ và cho cả dân tộc ta trong kháng chiến chống ngoại xâm… 5. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. – Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống nhìn từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác sau 1975. Sở dĩ tác phẩm có được thành công ấy không chỉ ở nội dung sâu sắc mà còn ở những yếu tố nghệ thuật đặc sắc sáng tạo tình huống truyện mang tính chất khám phá phát hiện kết hợp với việc xây dựng những hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa, đặc biệt làm nên sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là phương thức trần thuật. Phương thức ấy được thể hiện cụ thể ở tác phẩm qua những yếu tố sau – Chọn ngôi kể điểm nhìn trần thuật thích hợp. – Câu chuyện được kể qua sự phát hiện và cảm nhận của nhân vật Phùng. Phùng là một phóng viên nhiếp ảnh được cử đi thực tế để chụp một bức ảnh thuyền và biển cho bộ lịch nghệ thuật. + Sau nhiều ngày “phục kích” anh đã chụp được một cảnh thuyền và biển tuyệt đẹp. Thế nhưng, ngay liền sau đó anh lại chứng kiến một bi kịch trên con thuyền đó cảnh người đàn ông đánh vợ một cách tàn nhẫn, người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, đứa con thương mẹ sẵn sàng đánh bố… Ba ngày sau Phùng lại chứng kiến cảnh tượng trên một lần nữa. + Sau đó tại tòa án huyện, qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng nhận thức được bao nghịch lí của đời thường, về thân phận của con người, về những mặt khuất lấp của đời sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời… – Cách chọn ngôi kể và điểm nhìn nghệ thuật như trên đã làm cho câu chuyên trở nên chân thực, gần gũi, tự nhiên, tạo được sự đồng cảm ở người đọc, đồng thời qua Phùng – nhân vật tư tưởng – nhà văn gián tiếp bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình. – Giọng điệu trần thuật biến đổi linh hoạt theo diễn tiến tình tiết giàu kịch tính. Sau đây là một số tình tiết trong phần đầu câu chuyện + Tình tiết 1 Khi nghệ sĩ Phùng sau giây phút thăng hoa của tâm hồn như “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, lại bất ngờ chứng kiến một cảnh hoàn toàn trái ngược. Giọng điệu trần thuật biến đổi diễn tả khoảnh khắc bừng ngộ trước sự thật nghiệt ngã “ngay lúc ấy…”, “bất giác tôi nghe…” để rồi sau giây phút bàng hoàng, khi chứng kiến cảnh tượng lão đàn ông đánh vợ, người nghệ sĩ đã “kinh ngạc”. “Thế rồi chẳng biết từ bao giờ tôi đã vứt chiếc máy ảnh chạy nhào tới”. + Tình tiết 2 Sau khi đánh vợ, lão đàn ông bỏ đi, người mẹ vừa đau đớn vừa nhục nhã, xấu hổ, bà đã ôm chầm lấy đứa con “rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Còn đứa con lúc này “chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Thế rồi “bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền” trả lại cho bãi biển vẻ hoang sơ muôn thưở của nó. Và “như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”. – Cách thức trần thuật như trên đã làm cho câu chuyện sinh động và hấp dẫn bởi các tình tiết được diễn ra liên tiếp nhau, li kì, giàu kịch tính, lôi cuốn người đọc thêm tò mò, muốn khám phá tiếp những bí ẩn của câu khác, giọng điệu trần thuật ở đây còn khơi gợi ở người đọc những cảm xúc, những suy tư sâu lắng về sự thật đa diện, muôn màu của cuộc đời. /Văn học /Câu trần thuật Khái niệm và cách sử dụng chi tiết nhất Câu trần thuật là gì? Viết câu trần thuật như thế nào cho chuẩn và chính xác. Cùng tìm hiểu các ví dụ về câu trần thuật ngay nhé! Khái niệm câu trần thuậtChức năng và dấu hiệu nhận biết câu trần thuậtChức năng của câu trần thuậtCâu trần thuật có cấu tạo như thế nào?Cần lưu ý những gì khi viết câu trần thuật?Cách đặt câu trần thuậtVí dụ về câu trần thuậtTrong giao tiếpTrong văn học Khái niệm câu trần thuật Câu trần thuật là các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, được sử dụng dưới hình thức kể, miêu tả, nhận xét, thông báo hay nhận định,… về một sự vật hiện tượng, hoạt động hoặc tính chất của sự việc nào đó. Hiểu đơn giản, đây là kiểu câu được xem là câu tường thuật lại một vấn đề nào đó. Một vài ví dụ cơ bản về câu trần thuật được thể hiện như sau – Hôm nay tôi đi học. – Tôi thường giúp mẹ nấu cơm chiều. Câu trần thuật là câu dùng để miêu tả, tường thuật một sự vật hiện tượng nào đó Chức năng và dấu hiệu nhận biết câu trần thuật Chức năng của câu trần thuật Có thể đề cập đến chức năng chính của câu trần thuật là nhằm kể lại, tường thuật lại một sự việc hoặc một câu chuyện nào đó. Ngoài ra, kiểu câu này còn được dùng để yêu cầu, ra lệnh hoặc bày tỏ tình cảm, thái độ,… tuy nhiên, trường hợp sử dụng này lại không nhiều. Câu trần thuật có cấu tạo như thế nào? Kiểu hình thức dễ nhận biết, cơ bản và thông thường nhất của dạng câu này là thường kết thúc bằng dấu chấm ở cuối câu. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, câu trần thuật cũng có thể kết lại bằng dấu chấm than hoặc dấu ba chấm. Trên thực tế, câu trần thuật là câu được sử dụng thường xuyên nhất trong giao tiếp hằng ngày cũng như trong văn chương. Cần lưu ý những gì khi viết câu trần thuật? Những đặc điểm của kiểu câu này được khái quát như sau – Kiểu câu này được dùng để tường thuật, mô tả hay trình bày một sự việc, câu chuyện hay kể lại toàn bộ những sự việc có thể đã qua chứng kiến. Như vậy, không nên nghe từ nhiều nguồn khác nhau để có thể sử dụng câu trần thuật sao cho khái quát nhất. – Về cơ bản, câu trần thuật không có nhiều đặc điểm về hình thức như các kiểu câu nghi vấn, cầu khiến hoặc cảm thán. Cách đặt câu trần thuật Trước khi đi đến các vấn đề về việc đặt câu sao cho chuẩn xác, điều đầu tiên bạn cần lưu ý đảm bảo là hình thức trình bày của câu, tức là viết hoa chữ cái đầu câu, kết câu bằng dấu chấm, chấm lửng hoặc chấm than. Để có thể đặt câu trần thuật theo mục đích một cách nhanh và chính xác, bạn có thể tham khảo một số cách như sau – Nhằm mục đích xin lỗi Tôi thật sự xin lỗi vì những gì đã xảy ra. – Nhằm mục đích cảm ơn Cảm ơn cậu vì đã cho tớ mượn bút. – Nhằm mục đích miêu tả Cây đa trước cổng làng là nơi nghỉ chân của phần lớn người dân nơi đây. – Nhằm mục đích chúc mừng Chúc mừng sinh nhật bạn thân của tôi. Bạn cũng có thể xác định kiểu câu này thông qua việc xác định thành phần chủ chốt của câu, một câu không nhất thiết phải có tiền tố hoặc hậu tố nhưng bạn cần đảm bảo thành phần chính trong câu, tức là bạn cần chú ý đặc biệt đến việc đặt câu có nghĩa, có đầy đủ cả chủ ngữ lẫn vị ngữ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bạn cũng cần bổ sung thêm các thành phần khác cho câu để câu không quá thô cứng; chú ý kết hợp với các phương tiện tu từ khác để câu có thể sâu sắc và giàu hình ảnh, giàu biểu cảm hơn. Đặt câu trần thuật cần lưu ý đến hình thức trình bày cũng như xác định các yếu tố về mục đích và các thành phần khác trong câu Ví dụ về câu trần thuật Trong giao tiếp Đây là kiểu câu được sử dụng rất phổ biến trong giao tiếp, vậy nên có thể dễ dàng sử dụng và bắt gặp trong cuộc sống hàng ngày, tiêu biểu là các câu như sau – Hôm qua nhà em mưa ngập nước phải phụ mẹ nên không thể làm bài tập ạ! – Chị em là giáo viên cấp hai. – Tuần sau nhóm bạn của tôi đi du lịch ở Hội An. Trong văn học Ví dụ Ôi Tào Khê! Nước Tào Khê làm đá mòn đấy! Nhưng dòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thủy của ta!” Ví dụ trên thường bị nhầm lẫn thành câu cảm thán, tuy nhiên, trên thực tế, đây là những câu trần thuật ghép lại thành một đoạn nhằm miêu tả về tào khê. Câu trần thuật là kiểu câu rất phổ biến trong giao tiếp và trong văn học Trên đây là các kiến thức khái quát về câu trần thuật. Hy vọng, những kiến thức chia sẻ sẽ giúp ích cho việc học tiếng Việt của bé. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết. Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vở\ Hoàng Lê nhất thông chíA ỉg u y e n x h ì xkw cmHoàng L ê nhât thông chí và Tam quốc diễn nghĩa được biểu hiện trên nhữngnét lớn sau Góc nhìn tự sựTrong Tam quốc diễn nghĩaCác nhà nghiên cứu văn học vùng Viễn đông có nhận xét "nữ hoàngcủa các khoa học không phải là thần học mà là lịch sử" 50, tr 367. Lịch sửđã cung cấp cho văn học Trung đại một mẫu tự sự nhất định. Đó là nguyêntắc miêu tả sự kiện theo dòng chảy của thời gian với thái độ khách quan củangười kể Tam quốc diễn nghĩa, nhà văn La Quán Trung là người giớithiệu câu chuyện còn khi câu chuyện bắt đầu tác giả biến mất để cho sự vậttự nói lên theo trình tự khách quan của nó. Sau mỗi đoạn kể, tác giả lại xuấthiện để bàn phiếm về triết lí hoặc là để tóm tắt câu chuyện dẫn sang câuchuyện khác. Sự đánh giá của tác giả được thể hiện một cách khách quanthông qua những lời bình phẩm, những bài thơ của người đời sau hoặcđương thời được tác giả đưa vào tác phẩm và thông thường những lời bìnhluận ấy bao giờ cũng nhất quán với chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của tácgiả. Tào Tháo là một nhân vật anh hùng trong Tam quốc chí của Trần Thọnhưng trong con mắt "phản Tào" của nhà văn La Quán Trung, Tào Tháo làmột gian hùng. Tác giả sưu tầm bao nhiêu bài thơ để ca ngợi lòng nhân từcủa Lưu Bị thì lại cũng có nhiều bấy nhiêu bài thơ phê phán sự tàn ác, gianhùng của Tào Tháo. Theo nhà nghiên cứu vãn học Triệu Nghị Hành, trongtiểu thuyết cổ điển Trung Quốc chỉ có lời trực tiếp của nhân vật, lời nửa trựctiếp phải đến đầu thế kỉ X X mới có dẫn theo Nguyễn Đình sử 50, tr lỏ l.Ngoài việc bình luận sự kiện bằng cách đưa vào những lời bình luận củangười đương thời và người đời sau, thái độ của tác giả còn được bộc lộ giántiếp qua những lời khuyên của những người am hiêu thời cuộc. Những lờikhuyên ấy luôn được dựa trên những quan điểm đạo đức, chính trị củaKhổng giáo và thái độ trân trọng hướng về những thời kì lịch sử huy hoàng,những anh hùng của quá Ảnh hưởng của Tamơ ịu ố cdiễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chíA lc Ịu y e n T K ị X K u á nTrong H oàng Lê nhất thống chíGóc nhìn tự sự của tác giả Hoàng Lê nhất thống chí chịu ảnh hưởng củaTam quốc diên nghĩa bởi khuôn mẫu của hình thức kể chuyện. Tác giả luôn đứngở vị trí thứ ba để nhận định và đánh giá sự kiện và hành động của nhân vật. Tuyvậy, Hoàng Lê nhất thống chí còn là một tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc củathể kí sự lịch sử, một thể loại đã được sử dụng trong nhiều tác phẩm vãn xuôi chữHán Việt Nam. Đặc trưng của thể loại này là tính thời sự và thái độ của tác giảđối với sự kiện phản ánh. Những lời bình luận ở hồi một của Hoàng Lê nhấtthống chí thể hiện trực tiếp thái độ của tác giả với tư cách người kể chuyện. Tháiđộ của tác giả còn được thể hiện ở những mạch ngầm bên trong sự kiện, ở lời văntrần thuật giàu cảm xúc, sảng khoái đậm đà chất sử thi. Trong Hoàng Lé nhấtthống chí những cảnh bi hài như cảnh binh lính tôn phò Trịnh Tông trên một cáimâm tung lên, hạ xuống như con rối được thể hiện bằng một giọng văn châmbiếm cũng phần nào thể hiện thái độ của tác giả. Nguyễn Huệ uy vũ, giản dị, raBắc vào Nam xuất quỉ nhập thần, các sự kiện liên quan đến Nguyễn Huệ đậm đàmàu sắc sử thi chi phối cảm hứng toàn truyện. Thái độ miêu tả của tác giả vẫn giữđược tính khách quan nhưng ngụ ý khen chê lại thể hiện rất rõ. Mặt khác trongHoàng Lê nhất thống chí còn có một đoạn mô tả sự kiện bằng lời thoại của nhânvật nhân vật ở vị trí người kể chuyện mà ở Tam quốc diễn nghĩa không có. Đólà đoạn đối thoại trực tiếp giữa Hữu Chỉnh và người em rể ở hồi 4. Qua câuchuyện của hai người, những sự kiện trong nội cung cua Chúa Trịnh xảy ra từ haihồi trước được xâu chuỗi lại chuyện kết cục bi thảm của mẹ con Thị Huệ,chuyện trả thù một cách tàn nhẫn của Dương Thái Phi... Như vậy thời gian của sựkiện không những bị đảo lộn mà bản chất sự kiện cũng được nhìn nhận nhiềuchiều chứ không chỉ qua thái độ đánh giá của tác giả. Đoạn hội thoại này còn cótác dụng phát triển cốt truyện, liên kết, xâu chuỗi những chi tiết, sự kiện trước vàsau nó góp phần làm nên tính thống nhất trong kêt câu tac phám. Đây la điêmcách tân thi pháp tiểu thuyêt chương hôi cua Hoơiìg Le ìĩhữt thong chì, the hiẹnnhững sáng tạo của các nhà văn Việt Nam trong quá trình tiếp thu ảnh hưởng vàphát triển những thành tựu của văn học dân Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lề nhất thống chí____________________________________________________________A lg u y ê n TTkị x k u ầ nTrong quá trình phát triên thê loại, tiểu thuyết phải trải qua một quátrình khăng định mình bên cạnh những các thể loại khác, các ngành nghệ thuậtkhác. Phương thức tự sự của Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thông chíphản ánh quá trình tự phân biệt với chính sử bất luận tác giả hay nhà nghiêncứu thời đó có ý thức được điều đó hay không. Nói theo cách nói của ngườixưa phận sự của sử là "truyền tín", quí ở "chân"; phận sự của tiểu thuyết là"truyền kì", quí ở "huyễn", ngòi bút của sử là "thực lục", ngòi bút của tiểuthuyết là "hư bút"; "sử" dừng lại ở chuyện đời thường còn tiểu thuyết lại có thểvươn tới những bến bờ xa lạ, những miền bí ẩn mà con người ít hoặc chưa biếtđên" 56. Để làm được điều đó, các tác giả ngoài việc sử dụng cách kểchuyện của sử kí còn tiếp thu những thành tựu của cách kể chuyện dân trần thuật thì được mở đầu bằng niên đại lịch sử nhưng cách dẫn chuyệnlại dùng những từ, cụm từ chuyển tiếp như "lại nói về", "tạm thời không nóivề... mà nói về", "nay lại nói về"... hoặc các hình thức ngắt đoạn như "hạ hồiphân giải" của chuyện kể dân gian. Như vậy là trong cùng một thời gian tácgiả có thể bao quát một khối lượng lớn sự kiện, không gian phản ánh của tácphẩm không những được mở rộng mà thời gian cũng trở nên mơ hồ thức kể chuyện dân gian còn ảnh hưởng đến việc khắc hoạ và xâydựng hình tượng nhân vật. Đó là việc các tác giả rất chú ý đến tính đột ngộtcủa hành động và sự xuất hiện của các nhân vật. Những từ như chợt, bỗng,nhìn kĩ té ra là ... được dùng nhiều lần để giới thiệu nhân vật; những hànhđộng gày chú ý đứng bật dậy, cười ha hả, những tiếng thét lớn... xuất hiệnkhá nhiều trong cả hai tác phẩm. Cách miêu tả này có tác dụng làm cho xúccảm trở nên căng thẳng và nhấn mạnh tính chất động của phương thức tự nhìn tự sự của tiểu thuyết chương hồi nói chung và Tam quốc diễnnghĩa, Hoàng L ê nhất thống chí nói riêng cho thấy mức độ sáng tạo của cácnhà văn chưa nhiều. Người trần thuật đứng từ một khoảng cách xa, đứng ơngoài nhân vật để xâu chuỗi sự việc. Điều này chứng tỏ tác phâm là một sựtiểu thuyết hoá lịch sử ở bình diện kết cấu sự kiện chứ chưa tiêu thuyêt hoa ơkhoảng cách trần Ảnh hưởng của Tam ơịUổc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí____________________________ ______________________________/slguỵeKv X k ị Xkuầ^ N ghệ thuật k ể Cách miêu tả sự kiện theo trình tự thời gianTrong Tam quốc diễn nghĩaNhững nguyên tăc diên tả lịch sử của Trung Quốc và Việt Nam có nhiềuđiêm giông nhau. Đó là lối trinh bày theo trình tự thời gian xảy ra sự kiện, mặtkhác còn có lối sắp xếp những sự kiện vào một năm hay một triều đại của mộtvị vua nào đó. Trong cách miêu tả có sự kết hợp với thời gian tuyến tính và thờigian biên niên. Các sự kiện trong tác phẩm được gắn với các mốc lịch sử cụ thểđê đảm bảo sự phát triển tuần tự của cốt truyện. Ta có thể chỉ ra hàng loạt cácmốc lịch sử được dùng làm thời điểm diễn ra các sự kiện, nhưTháng giêng năm Kiến An thứ bảy Tào Tháo bàn việc cất quân đánhViên 11 năm Kiến An thứ tám Tôn Quyền cất quân đánh Hoàng Kiến An thứ mười bảy Tào Tháo cất quân đánh Đông khác, tác phẩm sử thi bao quát cả một khối lượng sự kiện to lớn vớinhiều tuyến sự kiện và nhân vật khác nhau nhưng không bị rơi vào tình trạngchồng chéo rắc rối là vì tác giả đã đưa vào cách gọi năm tháng song song, làmcho người đọc thấy khi thì biến cố này thuộc về năm cai trị của tập đoàn này,khi thì thuộc về năm cai trị của tập đoàn kia. Đó là việc tác giả dùng niên hiệunhà Hán để chỉ thời gian lịch sử của toàn bộ thời Tam quốc như các niên hiệuKiến Ninh, Quang Hoà, Kiến An..., nhưng có khi lại dùng niên hiệu của từngnước để chỉ sự kiện xảy ra ở các nước như Thái Hoà, Thanh Long, cảnh Sơcủa nhà Nguỵ; Kiến Hưng, cảnh Diệu của nhà Thục; Gia Hoà, Xích Ô,Nguyên Hưng... của nhà Ngô. Có khi để chỉ những sự kiện có liên quan đến banước tác giả sử dụng sự đối chiếu niên hiệu của các nước ấy để nói về một sựkiện như năm Diên Hi thứ 15 nhà Thục là năm Thái Hoà thứ nhất nhà Ngô,năm Kiến Hưng thứ 13 nhà Thục là năm Thanh Long thứ 3 bên Nguỵ và nămGia Hoà thứ 4 nhà Ngô... Qua việc thay thế những niên hiệu làm phương tiệnđể biểu hiện thời gian, La Quán Trung đã nói lên được sự phức tạp và bất ôn64 Ảnh hưởng của Tam ơịuốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thống chí______________________________________________________ 7\]0uyê^\ T h i ~d\i\Áncủa một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Không gian phản ánh của tác phẩmđược mở rộng khi đang kể ở tuyến sự kiện này, tác giả dùng lại để miêu tảtuyến sự kiện khác bằng các từ chuyển tiếp lại nói, đây nói, hãy nói về... điềunày đảm bảo được sự mạch lạc của cốt truyện đồng thời có thê bao quát cảmột khối lượng sự kiện to lớn mà không làm mất tập trung của người quốc diễn nghĩa lấy cốt truyện là những hiện tượng xảy ra trong lịchsử, nhưng các tác giả với tư cách là người kể chuyện không phải bao giờ cũngbắt đầu từ một niên đại, thường thì tác giả miêu tả sự kiện rồi mới kết thúc bằngnăm tháng diễn ra sự kiện với một câu chuyển gần như có tính công thức "sựviệc diễn ra nhằm vào năm..." Mặt khác, sự nhấn mạnh tính tự sự trong tácphẩm cũng được thể hiện ở sự phân chia thời gian thành các đơn vị nhỏ hơn như"vào một ngày", "một đêm"... Khoảng thời gian này không câu nệ vào các niênhiệu, triều đại mà sử dụng thời gian một cách mơ hồ như năm ấy, đêm ấy, mộthôm, hai ba ngày sau... Điều đó làm cho cốt truyện trở nên mơ hồ hơn và có xuhướng thoát khỏi sự liệt kê lịch sử như những nhà viết sử vẫn H oàng Lẻ nhất thống chíBên cạnh cách miêu tả sự kiện theo trình tự thời gian, cách gọi nămtháng song song và sử dụng thời gian phiếm chỉ như Tam quốc diễn nghĩa,trong Hoàng Lê nhất thống chí có một số sự kiện được trình bày đảo lộn trậttự thời gian theo dụng ý của tác giả. Tác phẩm được mở đầu bằng một sựkiện rất riêng tư trong nội cung nhà Chúa. Thị Huệ được Chúa yêu quí dámném viên ngọc dạ quang vốn là đồ trang sức của Chúa rồi tự ý bỏ sang cungkhác. Sự kiện Thị Huệ có mang sinh ra được Trịnh Cán vào năm Đinh Dậuniên hiệu cảnh Hưng 38 1777, việc Trịnh Cán được Chúa yêu chiều và mưuđồ cướp ngôi thế tử của Thị Huệ. Nhưng sự kiện thái phi Dương Ngọc Hoancùng Khê Trung Hầu dối Chúa để có được Trịnh Tông xảy ra trước đó 14năm lai được trình bày sau Trịnh Tông sinh vào năm Quí MÙI, Canh Hưng24 1763. Sau đó các tác giả miêu tả sự kiện năm 1774, Quận Huy chia bèkéo cánh cùng Thị Huệ náo loạn trong phủ Chúa. Như vậy thơi gian cua sựkiện bị đảo lộn, không phu thuôc vào tiến trình phat trien cua thơi gian hch65 Ảnh hưởng của Tam ơ[Uốc diễn nghĩa đối với Hoàng Lê nhất thông chíA ỉg u y ễ n X k ị X k u ầ nsư mà phụ thuộc vào sự săp xêp của tác giả nhằm bộc lộ chủ đề của tácphâm. Mặt khác, sự đao lộn thời gian của sư kiện ớ ngay đầu tác phẩm còncó tác dụng gây chờ đợi, kích thích độc giả khám phá sự kiện. Đó là xuhướng thoát khỏi hình thức trình bày của lịch sử biên niên, khẳng định giá trịnghệ thuật của tác phẩm văn C ác biện pháp kìm hãm hành độngBiện pháp kìm hãm hành động là biện pháp nghệ thuật kể chuyện củanhững nghệ nhân dân gian. Đây cũng là một thủ pháp quan trọng để nhà vănTrung đại bố trí sự kiện tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm, khơi gợi sự tò mò, kíchthích trí tướng tượng của người đọc. Sau đây là một số biện pháp được dùng phổbiến trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàìì g Lê nhất thống "Sợi dây dấu kín"Trong Tam quốc diễn nghĩa, đoạn "Tam cố thảo ]ư" được các nhànghiên cứu đánh giá là một trong những đoạn có tính nghệ thuật cao. Sựxuất hiện của Khổng Minh được kìm hãm vừa đủ hợp lí để người đọc có thê’tưởng tượng về một con người tài giỏi đến mức tất cả những người tài giỏitrong thiên hạ đều phải ca ngợi. Trước khi tả cảnh lều tranh của KhổngMinh ở Ngoạ Long Cương thì tác giả đã tả cảnh trang viện của Thuỷ Kính ởNam Dương. Trước khi có Khổng Minh xuất hiện đã có Từ Thứ. Thuỷ Kínhtiến cử Ngoạ Long, Phượng Sồ, nhưng tiến cử như vậy cũng không có nghĩalà tiến cử. Tư Mã Huy không tiến cử Khổng Minh mà lại thành tiến Đức đến núi Ngoạ Long gặp nhầm Thôi Châu Bình, Gia Cát Quân,Hoàng Thừa Ngạn... mới gặp được Khổng Minh. Cách tả này được Mao TônCương ví như người đẹp "núp sau rèm châu, chỉ để lộ nửa mặt hoa, khiếnngười đọc ngơ ngẩn chẳng hiểu ra làm sao 2, lời bàn hôi 35. Biện pháplàm cho người đọc hồi hộp này được các nhà phê bình Trung Quốc truyềnthống gọi là "sợi dây dấu kín".Cách miêu tả này cũng được thể hiện trong Hoàng L ê nhất thống đông anh hùng của Nguyên Huê được thê hiện mọt cach tạp trung tronghồi thứ 14, người anh hùng áo vải thãng hoa trong cuộc truy quét 20 vạn quân66 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thông chí____ ______________________________________________________________________ 7 \ Ỉ0 U y e nT k ị ~ rkw ầ nThanh vê nươc. Nhưng trước đó người đoc chỉ đươc biêt đến tài năng củaNguyên Huệ qua nhận xét, đánh giá của Hữu Chỉnh và một cung nhân trong câuchuyện với mẹ Lê Chiêu "Vận động theo làn sóng"Một biện pháp dùng để kìm hãm hành động thường thấy nữa trong Tamquốc diễn nghĩa là biện pháp miêu tả "vận động theo làn sóng". Vận động theolàn sóng đẩy xung đột và mâu thuẫn trớ nên gay gắt đến cực điểm nhưng lạithay thế cách tháo nút mà người ta chờ đợi bằng sự giảm dần. Chuyện VươngDoãn dùng Điêu Thuyền để chia rẽ Lã Bô và Đổng Trác là một chuyện tiêubiểu cho biện pháp kìm hãm hành động bằng cách tạo nên những đợt sóngmâu thuẫn lúc lên cao lúc giảm xuống rất căng thẳng. Vương Doãn khéo sắpđặt Điêu Thuyền giữa Đổng Trác và Lã Bố nhưng sự xuất hiện của Lí Nhotrong quan hệ căng thẳng giữa hai người như một sự giảm yếu. Lần thứ nhất LíNho khuyên Đổng Trác dùng vàng, gấm để tặng và mua chuộc Lã Bố khiếncho mâu thuẫn tưởng như được chùng xuống. Lần thứ hai, sau sự kiện ở PhụngNghi đình, Đổng Trác tức tối cầm kích đâm Lã Bố nhưng lại vấp phải Lí lần nữa Lí Nho lại khuyên Đổng Trác đem Điêu Thuyền cho Lã Bô' đểgiải toả mâu thuẫn giữa hai người. Xung đột một lần nữa lại tạm lắng xuốngđể chuyển sang một xung đột mới gay gắt và quyết liệt hơn dẫn đến kết cục LãBố đâm chết Đổng hồi chính biên của Hoàng Lé nhất thống chí vẫn luôn được cácnhà nghiên cứu đánh giá là thành công hơn so với mười hồi phần tục vậy, sáu hồi đầu của phần tục biên vẫn là những hồi hay, hấp dẫn ngườiđọc. Nguyên nhân của sự hấp dẫn ấy không chỉ vì tầm cỡ của sự kiện mà cònở chỗ các tác giả của Hoàng L ê nhất thống chí đã sử dụng các biện pháp kìmhãm hành động để sắp xếp chi tiết giống Tam quốc diên nghĩa. Nguyên Huệđược thể hiện trong Hoàng L ê nhất thông chí không chi là một thu linh có tàilãnh đạo một đội quân bách chiến bách thăng mà còn là một nguời có conmắt tinh đời trong việc nhận định và sử dụng hiên tài. Nguyên Huệ đánh giácao tài năng của Hữu Chỉnh nhưng cũng sớm nhận ra việc dùng Chinh giông67 Ảnh hưởng của Tam 0[ưốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí_________________________________________ ___________ ______T k ị Xkucmnhư nhôt hô dưới gâm giường nên luôn có ý đề phòng và chờ cơ hội để tiêudiệt. Chuyện gièt Chính được tác giả dùng các biện pháp kìm hãm hành độngtheo kiêuvận động theo làn sóng" tạo nên những đợt sóng mâu thuẫn lúclên cao, lúc giảm yêu tạo nên sự thống nhất các tình tiết trong suốt ba hồi từhôi tám đên hôi mười. Đang lúc Chỉnh kiêu ngạo, hống hách trên đất Bắc Hàthì lại có chuyện tướng Tày Sơn là Võ Văn Nhậm đem quân ra Nghệ Andùng thư đê trách móc Chỉnh, chuyện Nhậm dùng lời nói khéo vỗ yên Chínhđể có thời gian sắp xếp công việc ở Nghệ An. Sự việc đang đến hồi căngthẳng thì lại có chuyện đi sứ của Trần Công Xán như một sự giảm yếu. Rồilại có chuyện Chỉnh không hiểu hết thâm ý của Võ Văn Nhậm và NguyễnHuệ nên không chú ý đề phòng phía Nam, ra sức tiêu diệt phe Trịnh khi Chỉnh càng ngày càng làm điều bạo ngược, tự cho rằng người đờichẳng còn ai bằng mình thì Nguyễn Huệ sai Ngô Văn Sở, Phan Văn Lâncùng Võ Vãn Nhậm kéo quân ra Bắc đi đến đâu chiến thắng đến đấy vànhanh chóng tiêu diệt con người vẫn tự coi mình là "số một đất Bắc Hà". Sựkìm hãm hành động bằng cách tạo ra lớp lớp những mâu thuẫn đan cài lúclên cao, lúc giảm yếu luân phiên kế tiếp nhau để kết nối sự kiện, kích thíchsự tìm tòi khám phá của độc Hình thức ngắt hồiHành động trong Tam quốc diễn nghĩa và Hoàng Lê nhất thống chí cònđược kìm hãm bằng hình thức ngắt hồi. Tác giả mô tả các tình tiết đến giaiđoạn cao trào thì ngắt hồi. Nguyên tắc cắt ngang câu chuyện đúng vào lúccăng thẳng nhất là nguyên tắc của chuyện kể dân gian buộc người nghe hômsau lại phải đến nghe tiếp. Kết thúc của hồi bao giờ cũng là một câu hỏi từchương "Chưa biết sự việc ra sao, xem hồi sau s ẽ rõ". Đây là thủ pháp nghệthuật có tính nguyên tắc và được sử dụng trong tất cả tác phẩm viết băng hìnhthức tiểu thuyết chương hình thức trần thuậtLời trần thuật của tiểu thuyết chương hồi có ưu điêm là khái quátđược một khối lượng đồ sộ sự kiện, khái quát được tính cách của nhân vật68 Ảnh hưởng của Tam quốc diễn nghĩa đối vói Hoàng Lê nhất thống chí_____________________________________________________________ Ạ ỉg n ỵ ê n X k ị X k u ầ nnhưng lại có nhược điểm là chưa đi được vào thế giới bên trong của nhânvật, chưa miêu ta được những mạch ngầm tâm lí phức tạp của con tran thuạt chu yeu la lơi kê cua tác giả. Khảo sát trong Tonĩ quốc diễnnghĩa và Hoàng L ê nhất thống chí chúng tôi thấy có một số hình thức trầnthuật sau Chính thuậtChính thuật hay còn gọi là thuận thuật là cách miêu tả sự vật hiện tượngở thời hiện tại, hình thức này được sử dụng chú yếu trong các tác phẩm vănxuôi Trung đại, sử kí và tiểu thuyết chương hồi. Hình thức này có ưu thế đặcbiệt trong việc diễn tả nhũng sự kiện có mối quan hệ móc xích nhau bằng quanhệ nhàn quả. Trong biên niên lịch sử, các câu chuyện tồn tại hầu như khônggắn liền với nhau. Những biến cố khác nhau được lịch sử tập hợp lại trong mộtđơn vị thời gian, có thê’ là một năm hay một niên hiệu của triều đình cai quá trình biến các cáu chuyện rời rạc nhau thành một tác phẩm thốngnhất về cốt truyện và hoàn chỉnh về mặt nghệ thuật, các tác giả Trung đại dùnghình thức kể chuyện này để đào sâu mối quan hệ nhân quả giữa các sự quả của sự việc được nêu ra, sau đó tác giả đi tìm nguyên nhân để giảithích cho kết quả ấy. Các biến cố lịch sử được các tác giả của Tam quốc diễnnghĩa và Hoàng L ê nhất thống chí quan niệm như là hậu quả của một tình thếđã xảy ra từ trước, vì vậy phải bắt đầu từ xuất phát điểm cửa nó, từ đó các mốiquan hệ nhân quả được mở ra, kết thúc và lại bắt mở đầu và kết thúc rất quan trọng đối với nghệ thuật tự sự bới đổivới tác giả Trung đại, thời gian không phải là vô hạn, các tác giả cần có mộtcái khung thời gian để sắp đặt và phân bô các sự kiện. Giải thích sự vật cónghĩa là chỉ ra sự ra đời của nó, tức là chỉ ra cái băt đâu cua nó đê từ đó câutruyện tiến triển trong khoảng mở đầu và khoang kêt thuc. Ngươi đọc khôngphải suy nghĩ và phán đoán những gì xảy ra ngoài giới hạn của khung truyện,điều đó cũng có nghĩa là không có quá khứ xảy ra trước nó và cũng không cótương lai xảy ra sau nó. Lịch sử thời kì Tam quôc được bat đâu bang the chânvac thiên ha chia ba năm 208 và cuộc đâu tranh thon tinh lan nhau giưa ba69 Ảnh hưởng của Tam Oịuổc diễn nghĩa đối với Hoàng Lế nhất thống chí-7\guy ê n T k ị X k u c mnươc dân đén sự thông nhất của nhà Tấn năm 280. Với tư cách là một nhàtiêu thuyêt, La Quán Trung đã đưa người đọc ngược dòng lịch sử để lí giải sựhình thanh và tan rã của các tập đoàn chính trị quân sự Nguỵ, Thục, Ngô trongdòng chảy của lịch L ê nhất thống chí cũng bị ảnh hưởng bời cách kể chuyện này. Tôđậm sự kiện Trịnh Sâm bỏ trưởng lập thứ, tác giả coi đó chính là nguyên nhâncủa những sự kiện xảy ra sau đó. Trong phần kết thúc của câu chuyện. Lấy chủđề thống nhất đất nước nên ở hồi cuối sự kiện trong 11 năm từ năm 1793Quang Toản lên ngôi đến năm 1804 di hài Lê Chiêu Thống được mang về nướctác giả mô tả một cách qua loa để nhanh chóng đến chuyện đất nước thống chí tác giả còn ghi lại câu chuyện của nhiều năm sau năm 1860 vua TựĐức phong danh hiệu và lập đền thờ Lê Chiêu Thống và những người hầu sự kiện được trần thuật theo nguyên tấc toàn vẹn, đầu đuôi đầy đủ, thờigian khép kín theo từng Dự thuậtNhiều nhà nghiên cứu thường cho rằng trong Tam quốc diễn nghĩa vàHoàng Lê nhất thống chí không có thời tương lai. Khảo sát trong tác phẩmchúng tôi thấy rằng thời tương lai chưa trở thành một đơn nguyên tự sựnhưng cũng có thấy xuất hiện trong tác phẩm. Đó là việc tác giả đưa thuậtbói toán vào tác phẩm để tiên đoán tương lai nhân vật. Số phận của nhữnganh hùng trong Tam qu ốc diễn nghĩa gắn chặt chẽ với lời tiên đoán. Nhìncây dâu lớn, cao hơn năm trượng, trông xa như một cái tán che cỗ xe trongvườn nhà của Lưu Bị một thầy tướng đi qua nói rằng "nhà có cây dâu nàytất sinh quí tử", đó là điềm báo tridụng thuật bói toán để lừa đối phương mà Tam C Ô dien nghiữ khong CĐó là trường hợp Hữu Chỉnh lừa Quận Tạo đánh chiếm Thuận Hoá mộtcách dễ dàng. Điều đó chứng tỏ những yếu tố bói toán để dự cảm tương laitrong Hoàng L ê nhất thống chí không mang tính chât thiêng liêng huyen bi71 1. Khái niệm trần thuật Trần thuật là biện pháp nghệ thuật cơ bản nhất để tạo thành văn bản văn học. Về bản chất, trần thuật là hành vi ngôn ngữ nhằm kể, thuật, miêu tả, cung cấp thông tin về sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định trong không gian, thời gian và về ý nghĩa. Trần thuật có nhiệm vụ cho người đọc biết ai, xuất hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống nào... Trần thuật có thể được thực hiện bằng các phương tiện phi ngôn ngữ như diễn viên biểu diễn trên sân khấu, phim ảnh dùng hình ảnh, âm nhạc dùng âm thanh, hội hoạ dùng đường nét... Vì thế, miêu tả cũng có ý nghĩa trần thuật. Ở đây đang nói về trần thuật trong văn học. Trần thuật không đồng nhất với tự sự, vì thế không nên nghĩ rằng chỉ trong truyện mới có trần thuật, trong thơ trữ tình cũng sử dụng trần thuật. Trần thuật có thể tìm thấy trong các bài thơ Kinh Thi, trong ca dao. Các nhà thơ trung đại Việt Nam gọi các bài thơ trữ tình là “thuật hoài”, “tự tình” kể nỗi lòng. Hãy đọc một vài câu thơ​Bước tới Đèo Ngang hóng xế tà Cỏ cây chen lá đá chen hoa...​Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan​Đã bấy lâu nay bác tới nhà Trẻ thời đi vắng chợ thời xa...​Bạn đến chơi nhà - Nguyễn Khuyến​Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.​Ngắm trăng - Hồ Chí Minh Trần thuật được sử dụng rất phổ biến trong thơ. Ví dụ như Thạch Hào lại, Bài ca nhà tranh bị gió thu phá, Chinh phụ ngâm, Hầu trời, Tương tư, Xa cách, Vội vàng, Nắng mới, Lượm, Theo chân Bác, Đêm nay Bác không ngủ... Tuy vậy, trần thuật thể hiện sự đa dạng và phong phú nhất trong tác phẩm tự sự. Trần thuật đòi hỏi phải có người kể, người thổ lộ. Chủ thể của lời kể trong thơ trữ tình là nhân vật trữ tình, người kể trong truyện là người kể chuyện. Trần thuật phải xử lí mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi sự kiện và nhân vật. Như vậy có hai nhân tố quy định trần thuật người kể và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, lời trần thuật, điểm nhìn trần thuật. Lời trần thuật chính là văn bản tự sự, sản phẩm của hoạt động trần thuật của người kể chuyện. Văn bản tự sự gồm hai thành phần lời trần thuật của người kể chuyện và lời của nhân vật. Lời nhân vật do người kể giới thiệu, do đó là bộ phận của lời trần thuật. Xét riêng lời trần thuật ta có thể kể đến các yếu tố lược thuật; dựng cảnh; hồi thuật, dự báo, gây đợi chờ huyền niệm; phân tích bình luận; giọng điệu.​2. Người kể chuyện, ngôi trần thuật, vai trần thuật và điểm nhìnNgười kể chuyện người trần thuật là yếu tố thuộc thế giới miêu tả. Đó là một vai do nhà văn tạo ra để thay mình thực hiện hành vi trần thuật. Khác với người kể chuyện trực tiếp lộ diện như trong diễn xướng dân gian, có thể sử dụng các yếu tố phi ngôn từ như điệu bộ, ánh mắt..., người kể chuyện trong văn bản viết ẩn mình sau dòng chữ. Người kể chuyện ấy có thể được kể bằng “ngôi thứ ba”, ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Và chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy như người trong cuộc, người chứng kiến hay người biết trước sự việc xảy ra bằng tất cả giác quan, sự hiểu biết của mình. Do đó về căn bản, mọi người kể chuyện đều kể theo ngôi thứ nhất. Cái gọi là kể theo “ngôi thứ ba” thực chất là hình thức kể khi người kể chưa được ý thức như trong truyện thần thoại, truyện cổ tích... hoặc là đã được ý thức nhưng cố ý giấu mình như trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại. Ví dụ, đoạn mở đầu Chí Phèo, Nam Cao viết “Hắn vừa đi vừa chửi, bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời...”. Thực chất câu trần thuật này là Tôi thấy “Hắn vừa đi vừa chửi...”, nhưng nhà văn giấu vai trò mình thấy đi, cho nên gọi là ngôi thứ nhất giấu mình. Thực ra ngôi thứ ba không kể được bởi vì “họ” “chúng nó”, “người ta” là đối tượng được nói đến, không phải là chủ thể trong giao tiếp. Nhà nghiên cứu Pháp Paul Ricoeur nói hai ngôi đó không có gì khác, đều là cái tôi của người kể chuyện. Tuy nhiên ở đây sự phân biệt ước lệ về ngôi kể vẫn có ý nghĩa nghệ thuật, bởi vì mỗi ngôi kể có một trường nhìn khác nhau được quy ước, đem lại những cái nhìn khác nhau. Người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng tôi “là một nhân vật” trong truyện, chứng kiến các sự kiện đứng ra kể. Nội dung kể không ra ngoài phạm vi hiểu biết của một người, thường gắn với quan điểm đánh giá riêng của nhân vật ấy. Chẳng hạn, ông giáo kể chuyện lão Hạc trong truyện Lão Hạc của Nam Cao. Kể theo ngôi thứ nhất là hình thức nghệ thuật xuất hiện rất muộn, khi người ta đã ý thức được ý nghĩa của “cái tôi.” Vì thế mãi đến đầu thế kỉ XIX mới xuất hiện ở châu Âu và thịnh hành dần cho đến ngày nay. Ngự trị trong văn học cổ và văn học trung đại là hình thức ngôi thứ ba. Ngôi thứ ba cho phép người kể có thể kể tất cả những gì có ở trên đời, kể cả những bí mật trong tâm hồn kẻ khác, những thế giới xa lạ, chưa có dấu chân con người hoặc những miền mà về nguyên tắc, người kể không thể biết. Đây là ngôi kể tự do nhất. Còn ngôi thứ nhất thì chỉ kể được những gì mà khả năng của một người cụ thể có thể biết được, như vậy mới tạo được cảm giác chân thực. Ngôi thứ hai xưng “anh” như trong tiểu thuyết Đổi thay của Michel Butor, Linh Sơn của Cao Hành Kiện cũng mang cái tôi của người kể, song với ngôi thứ hai, nó tạo ra một không gian gián cách một cái tôi khác, một cái tôi được kể ra, chứ không phải là tự kể như ngôi thứ nhất, mặc dù khi đọc, người đọc nhanh chóng “phiên dịch” cái “anh” ấy ra cái “tôi”. Người kể là một vai mang nội dung. Trong truyện Lão Hạc, người kể xưng “tôi”, nhưng cái “tôi” ấy là một ông giáo thì có một ý nghĩa đặc biệt về mối quan hệ giữa người trí thức nghèo với người nông dân nghèo, ông giáo kể thì khác người đầy tớ kể như trong tiểu thuyết Bợm nghịch. Nhiều tác giả nam kể chuyện bằng vai nữ, và ngược lại không ít nhà văn nữ kể chuyện bằng vai nam. Điều này có khi thể hiện ý thức về giới tính trong sáng tác, có khi chỉ là tìm một giọng có âm hưởng mạnh mẽ trong lòng người. Trong thơ trữ tình, tuy không có người kể chuyện nhưng có nhân vật trữ tình, biểu hiện tư tưởng, cảm xúc qua ngôi thứ nhất xưng “tôi”. Trong thơ cũng có nhân vật trữ tình nhập vai. Hiện tượng này không hiếm, ví dụ như trong Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, hai tác giả nam giới là Đặng Trần Côn và Nguyễn Gia Thiều đều nhập vai người phụ nữ - người chinh phụ và người cung nữ. Trong bài thơ Bầm ơi của Tố Hữu, chủ thể trữ tình là một anh bộ đội, vai trữ tình này có ý nghĩa khác hẳn với cái tôi của nhà thơ. Vẫn biết rằng ý thức nhà thơ đã nhập vào vai anh bộ đội, nhưng lời anh bộ đội có một giá trị khác mà nhà thơ không thay được. Trong một văn bản trần thuật không nhất thiết chỉ có một người trần thuật. Các văn bản phức tạp có thể có hai người trần thuật trở lên, tạo thành một kết cấu có tầng bậc hay ghép nối. Chẳng hạn, trong truyện Số phận con người của M. Sholokhov, người kể chuyện lúc đầu là một người xưng tôi, sau chuyển cho nhân vật Socolov tự kể chuyện mình. Trong truyện Rừng xà nu lúc đầu do người kể ngôi thứ ba trần thuật, sau chuyển sang lời kể của cụ Mết về sự tích chiến đấu của Tnú. Đó là cấu trúc truyện trong truyện. Ngôi và vai có ý nghĩa trong việc tạo thành giọng điệu của văn bản, bởi vì giọng điệu bao giờ cũng là giọng của một ai đó, được thể hiện bằng những phương tiện ngôn từ nhất định. Người kể chỉ có thể kể được những điều họ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy trong không gian, thời gian, trong trạng thái cảm xúc, trình độ văn hoá, tuổi tác, quan điểm tư tưởng, giá trị. Vì thế, điểm nhìn thể hiện vị trí người kể dựa vào để quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện. Ở đây có nhiều loại điểm nhìn. Điểm nhìn bên ngoài người kể trần thuật, miêu tả sự vật từ phía bên ngoài nhân vật, kể những điều nhân vật không biết. Ngược lại, điểm nhìn bên trong kể xuyên qua cảm nhận của nhân vật. Điểm nhìn không gian nhìn xa, nhìn cận cảnh. Điểm nhìn di động từ đối tượng này chuyển sang đối tượng khác. Điểm nhìn thời gian nhìn từ thời điểm hiện tại như sự việc đang diễn ra, hay nhìn lại quá khứ, qua màn sương của kí ức. Điểm nhìn tâm lí nhìn theo con mắt người từng trải hay kẻ mới bước vào đời, giới tính nam hay nữ, tuổi tác già hay trễ. Ngoài điểm nhìn của người kể chuyện còn có điểm nhìn của nhân vật được kể. Theo M. Bakhtin, điểm nhìn còn mang nội dung tư tưởng, ý thức hệ. Lại có điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ, tuyên bố quan điểm đánh giá một chiều mà không cần giải thích. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh cựu ước phần Sách của Gióp mở đầu giới thiệu Gióp như sau “Tại trong xứ út xơ có một người tên là Gióp; người ấy vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời, và lánh khỏi điều ác.”. Sau khi kể chuyện Satan mê hoặc Thượng Đế và những tổn thất cùng nỗi buồn đau đầu tiên của Gióp, người kể kết thúc đoạn ấy như sau “Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa Trời”. Vì sao Gióp không phạm tội, vì sao biết Gióp không xúc phạm chúa Trời, điều đó chỉ Chúa Trời mới biết được mà thôi. Điểm nhìn tưởng có thể là đối thoại, nghĩa là hai điểm nhìn trái ngược nhau cùng tồn tại trong một tác phẩm. Đây là điều chúng tôi đã đề cập khi phân tích Truyện Kiều. Chẳng hạn, đối với nhân vật Từ Hải, có quan điểm gọi Từ là giặc, có quan điểm gọi Từ là đấng anh hùng. Đối với chữ “trinh” cũng có hai quan điểm. Khi thì nói Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu, khi lại nói Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường. Hiện tượng điểm nhìn nhiều chiều giải phóng người đọc khỏi cái nhìn một chiều. Điểm nhìn trần thuật gắn bó mật thiết với ngôi kể, nhưng rộng hơn ngôi kể. Bởi vì nhiều khi truyện kể theo ngôi thứ ba, nhưng có khi ngôi thứ ba kết hợp với điểm nhìn của nhân Vật. Ví dụ đoạn Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh, điểm nhìn thể hiện trong từ ngữ và cảnh sắc​ Người lên ngựa kẻ chia bào Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.​Điểm nhìn bên ngoài, ngôi kể thứ ba xen điểm nhìn nhân vật​Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.​Điểm nhìn người tiễn là Thuý Kiều​Người về chiếc bóng năm canh, Kẻ di muôn dặm một mình xa xôi.​Điểm nhìn ngôi thứ ba xen điểm nhìn nhân vật​Vừng trăng ai xẻ làm đôi? Nửa in gối chiếc nửa soi dăm trường.​Điểm nhìn của nhân vật Thuý Kiều “Người”, “kẻ” là điểm nhìn bên ngoài. “Trông vời”, “muôn dặm một mình”, “in gối chiếc”, “soi dặm trường” là điểm nhìn bên trong của Thuý Kiều. Một ví dụ khác về sự đan xen điểm nhìn người kể và nhân vật trong truyện Chí Phèo ở đoạn Chí ăn cháo hành “Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng ra nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu, thương hại điểm nhìn thị Nở. Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muôn làm nũng với thị như với mẹ điểm nhìn Chí Phèo. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người?” điểm nhìn thị Nở. Sự luân phiên điểm nhìn làm người đọc vừa trông thấy theo trường nhìn bên ngoài, vừa nhìn thấu vào tâm can nhân vật; khi thì theo con mắt nhân vật này, khi thì theo mắt nhìn của nhân vật kia, tham gia vào cuộc đối thoại ngầm với văn bản. Trong văn bản trần thuật nhiều khi cần phân biệt điểm nhìn người trần thuật gần với tác giả với điểm nhìn nhân vật. Nhân vật chỉ quan tâm đến cuộc sống của chính nó, còn tác giả quan tâm phân tích nhân vật cho nên có định hướng riêng. Ví dụ trong Chí Phèo, sau khi kể việc Chí Phèo chửi đổng, người kể nêu câu hởi “Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.” Hoặc trong cuộc đối thoại nội tâm của hai nhân vật, bỗng vang lên lời phân tích theo quan điểm tác giả “Đó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi, hay trận ốm thay đổi hắn về sinh lí cũng thay đổi cả tâm lí nữa?”. Đây là sự khác biệt giữa điểm nhìn được trần thuật và điểm nhìn trần thuật, không thể lẫn lộn. Qua ví dụ trên, ta cũng thấy được điểm nhìn trần thuật thường di động, dịch chuyển từ vị trí này sang vị trí khác, lúc tới gần, lúc lùi xa, luôn thay đổi góc độ quan sát. Một khía cạnh khác của điểm nhìn là điểm rơi của cái nhìn, thể hiện ở hệ thống các chi tiết, đồ vật, phong cảnh, màu sắc, âm thanh, động tác... Phân tích phương diện này giúp khám phá cả cái nhìn của tác phẩm. 3. Lời trần thuật Lược thuật Lược thuật là phần trình bày, giới thiệu về nhân vật, bối cảnh, tình huống... cung cấp những thông tin bước đầu về nhân vật, chuẩn bị cho các biến cố hoặc thông tin dự báo trong quá trình hoạt động của nhân vật, nhưng không đi sâu vào chi tiết, không dừng lại miêu tả. Ví dụ những đoạn giới thiệu lai lịch nhần vật trong Truyện Kiều, đoạn giới thiệu về Vôtơranh trong tiểu thuyết Lão Gôriô...Ví dụ đoạn lược thuật về Hoạn Thư​Vốn dòng họ Hoạn danh gia, Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư. Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa, Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày. Ở ăn thì nết cũng hay, Nói điều ràng buộc thì tay cũng già.​Truyện Kiều — Nguyễn Du Ở đây không có biến cố, hành động, sự giới thiệu rất khái quát nhưng có tác dụng dự báo các xung đột gay gắt về sau. Lược thuật tuy quan trọng nhưng chỉ chiếm phần nhỏ trong văn bản. Nếu gia tăng lược thuật thì truyện thơ sẽ thành vè còn truyện ngắn sẽ biến thành bản “1í lịch trích ngang’’, làm giảm sút tính nghệ thuật. Dựng cảnh và miêu tả chân dung Dựng cảnh và miêu tả chân dung là phần tái hiện trực tiếp chân dung, hành động, biến cố, đối thoại của các nhân vật. Miêu tả cảnh tượng có tác dụng tái hiện sự vật, hiện tượng trong không gian, thời gian cụ thể, với những biểu hiện, đặc điểm cụ thể. Thường ở những đoạn miêu tả cảnh tượng thì thời gian ngừng trôi. Dựng cảnh không chỉ là chuẩn bị môi trường cho nhân vật hoạt động mà còn gián tiếp miêu tả tâm lí, cung cấp thông tin về những đổi thay, tạo không khí, dự báo biến cố mới. Cảnh Kiều tiễn Thúc Sinh, Kiều ồ lầu Ngưng Bích trong Truyện Kiều, cảnh chiều hôm và đếm tối nơi phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, cảnh mở đầu trong Tắt đèn đều là như thế. Cảnh ở đây còn là cảnh đối thoại, những lời đối đáp chiếm một lượng thời gian bằng lượng thời gian trong thực tế, cảnh hành động, âu yếm... Vì thế, cảnh cũng là một bộ phận không thể thiếu của truyện. Phân tích, bình luận Yếu tố phân tích, bình luận không hiếm trong văn học. Nghị luận trong thơ người ta đã biết từ xưa. Thơ thiền Lý Trần, thơ Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đều có nhiều yếu tố nghị luận. Ví dụ, “Thớt có tanh tao ruồi đổ đến, Gang không mật mỡ kiến bò chi”. Hoặc “Còn bạc còn tiền, còn đệ tử, Hết cơm hết rượu, hết ông tôi”... Nhưng nghị luận trong thơ cũng như trong văn đều phải thấm đượm tình cảm, cảm xúc. Trong trần thuật, nghị luận phân tích góp phần thúc đẩy nhân vật hành động. Ví dụ, đoạn phân tích tâm lí Chí Phèo khi vào nhà Bá Kiến “Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi của ngày xưa, hắn thấy quả là táo bạo. Không táo bạo mà dám gây sự với cha con Bá Kiến, bốn đời làm tổng lí. Và nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn làm cái ông gì ở làng này? Không vây cánh, không họ hàng thân thích, anh em không có, đến bố mẹ cũng không... Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lí trưởng, chánh tổng, bá hộ, tiên chỉ làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kì hào, Bắc kì nhân dân đại biểu, khét tiếng đến cả trong hàng huyện. Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn xuất đinh này làm được thế? Kể làm rồi có chết cũng là cam tâm. Vậy mà không cái cụ Bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước...”. Cả đoạn phân tích này diễn giải quá trình diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Giọng điệu Giọng diệu trong văn bản thể hiện cái giọng điệu riêng mang thái độ, tình cảm và đánh giá của tác giả. Giọng điệu là yếu tố tạo thành tính chỉnh thể của văn bản văn học. Giọng điệu khác khái niệm ngữ điệu trong ngữ học. Ngữ điệu thuộc về câu trong ngôn ngữ nói thành tiếng, gồm các loại như ngữ điệu thức tỉnh, trần thuật, nghi vấn, cảm thán, mệnh lệnh. Giọng điệu văn học thuộc giọng điệu phát ngôn, khác giọng điệu của câu hay của từ trong tình huống giao tiếp trực tiếp. Vấn đề số lượng và phân loại giọng điệu phát ngôn đến nay ngữ học vẫn chưa giải quyết. Tuy nhiên, giọng điệu phát ngôn phong phú hơn giọng điệu ngữ pháp rất nhiều. Có thể kể giọng chào hỏi, chia tay, hỏi thăm, ra lệnh, mời mọc, cho phép, hoà hoãn, đấu dịu, vỗ về, yêu cầu, đòi hỏi, đe doạ, cầu xin, khen ngợi, nguyền rủa, thoá mạ, lăng nhục, cảm ơn, suồng sã, mỉa mai, châm chọc, tố cáo, khinh khỉnh, khinh bạc... Là một hiện tượng nghệ thuật, giọng điệu văn học là giọng điệu của ngôn từ bên trong, nội tại, không cần đọc thành tiếng vẫn có sự khu biệt rõ ràng. Cũng không nên đồng nhất nó với giọng điệu bẩm sinh của tác giả vốn có ngoài đời. Trong thơ ca, giọng điệu thơ thuộc về chủ thể trữ tình, gần gũi với tác giả, phản ánh cái tôi thứ hai của tác giả. Trong truyện, giọng điệu phức tạp hơn, chủ yếu gồm hai giọng cơ bản giọng nhân vật đối với thế giới và giọng của người kể chuyện đối với nhân vật. Tuỳ theo đặc điểm tính cách, số phận nhân vật, người kể và các mối quan hệ đa dạng của chúng mà ta có giọng điệu đa dạng. Người kể có thể là nhân vật xưng tôi hay người kể vô hình nhưng cũng thể hiện kín đáo cái tôi thứ hai của tác giả. Cả hai giọng điệu này đều khúc xạ giọng điệu tác giả. Chức năng của giọng điệu là liên kết văn bản thành một thể thống nhất ngữ điệu — nhịp điệu trên cơ sở sự phân tách của ngữ điệu của dòng ngôn từ. Chức năng quan trọng nhất, theo M. Bakhtin là biểu hiện, thể hiện ở âm hưởng ngữ điệu trong hình thức nội tại, là yếu tố của “sự kiện” đời sống. Giọng điệu còn là yếu tố liên kết văn bản với ngữ cảnh ngoài văn bản, với không khí xã hội, thời đại, thể hiện sự đánh giá, ý chí, xức cảm của nhà văn. Giọng điệu thể hiện ở cách xưng hô, cách dùng từ ngữ nhằm biểu hiện tình cảm thành kính, thân mật hay xa lạ, khinh bỉ, châm biếm, giễu nhại. Một tiếng “chàng”, “nàng’’ trong văn hay một tiếng xưng hô “hắn”, “thị”' trong truyện đã tạo ra cả một trường từ vựng tương ứng và đặt người đọc vào cái không khí đặc trưng do tác giả tạo ra. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nổi bật lên giọng cảm thương, than oán, đau xót. Nổi bật trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan là giọng trào lộng, hài hước. Nổi bật trong truyện Thạch Lam là giọng đồng cảm, trữ tình... Giọng điệu thể hiện ở giọng, điểm nhấn lặp lại, sự cách quãng, nhịp điệu. Giọng điệu còn phối hợp với chi tiết, tình tiết, môtíp, động tác... làm thành cái không khí riêng của từng tác phẩm. Trong tác phẩm cận hiện đại xuất hiện tác phẩm nhiều giọng điệu. M. Bakhtin nói tới hiện tượng phức điệu, đa thanh trong giọng điệu. Nhà nghiên cứu Nga Pospelov dựa vào đặc điểm này chủ trương một tác phẩm có thể có nhiều phong cách. Bakhtin thì giải thích hiện tượng đó bằng lí thuyết đối thoại. Ông đã chứng minh cho thấy trong tiểu thuyết của Dostoevski lời trần thuật, ngoài giọng điệu người trần thuật còn mang giọng điệu nhân vật; lời có giọng điệu của nhân vật này lại mang giọng điệu của nhân vật mà nó đối thoại. Lời thơ cũng có thể có hai giọng. Chẳng hạn trong bài Thương vợ của Tú Xương, có thể nhận thấy giọng bà Tú ẩn trong giọng thơ của tác giả qua câu thơ sau “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, Có chồng hờ hững cũng như không”. Lời thơ là của ông Tú mà giọng chửi là của bà Tú. Nhà thơ đã lồng cái tiếng chửi mà lương tâm ông nghe được vào câu thơ trào phúng của mình. Các yếu tố của cốt truyện, truyện, trần thuật nói trên làm thành cái biểu đạt của văn bản. Từ những yếu tố biểu đạt ấy mà ta hiểu về nhân vật, đề tài, chủ đề của tác phẩm. Xem nhẹ, bỏ sót các yếu tố ấy sẽ có nguy cơ hiểu lệch, hiểu không trọn vẹn, đầy đủ sự phong phú trong tác phẩm văn học.​Sưu tầm tổng hợp

các phương thức trần thuật